Halloween Costume ideas 2015
Articles by "nhi tổng hợp"

   Có một vài quy tắc có thể giúp cho việc nhớ những dạng bệnh lý di truyền một cách đơn giản hơn, đúng cho rất nhiều trường hợp.


1. Nếu như không thể biết được thì nhớ di truyền lặn nhiễm sắc thể thường là rối loạn thường gặp nhất.
2. Nếu đó là những rối loạn do thiếu hụt "deficiency" thì hãy nghĩ đến di truyền gen lặn trên nhiễm sắc thể thường, trừ khi nhớ rõ đó là di truyền liên kết với NST giới tính X.
Mất 1 bản sao của 1 protein thường không đủ để gây ra triệu chứng.
3. Nếu như tình trạng bệnh lý nặng ( Bệnh nhân thường chết trước tuổi sinh đẻ) thì có vẻ như di truyền trội NST thường trừ khi có liên quan đến những đột biến tự phát.
Ví dụ: Bệnh thận đa nang di truyền lặn trên NST thường có rất nhiều kiểu hình nặng mà khi đó chủ yếu đó là do bệnh thận đa nang di truyện trội NST thường.
4. Không có quá nhiều những bệnh lý di truyền liên kết NST giới tính X nên hãy nhớ những trường hợp phổ biến nhất. Điều này dễ hơn nếu như bạn luôn nghĩ về nó ở những trẻ trai.
Cardi Tran Nhan dịch và tổng hợp

Williams syndrome:
Đặc trưng WILLIAMS:

Weight (low at birth, slow to gain) - Nhẹ cân, chậm tăng cân
Iris (stellate iris) - Mống mắt hình sao
Long philtrum - Nhân trung dài
Large mouth - Miệng tộng
Increased Ca++ - Nồng độ Ca++ máu tăng.
Aortic stenosis (and other stenoses) - Hẹp val ĐMC hoặc hẹp các cấu trúc khác.
Mental retardation - Chậm phát triển trí tuệ
Swelling around eyes (periorbital puffiness) - Vùng quanh hốc mắt đầy (bọng quanh hốc mắt to)




Top 100 điều cần biết nhi khoa
Sau đây là tổng hợp các kiến thức này giúp tóm tắt những khái niệm, nguyên lý và các chi tiết nổi bật nhất trong lĩnh vực nhi khoa và những điều thường gặp nhất trong khi thi cử.

nguồn ảnh: internet



76. Khoảng 6% số trẻ em là người mang mầm bệnh streptococcú và sẽ có kết quả cấy họng dương tính giữa các đợt viêm họng.

77. Điểm số apgar tại thời điểm 1 phút sau và 5 phút sau sinh không giúp tiên đoán kết cục lâu dài.

78. KHông bao giờ sử dụng natri carbonate ở trẻ sơ sinh nếu trước tiêm không bảo đảm thong khí đầy đủ.

Top 100 điều cần biết nhi khoa
Sau đây là tổng hợp các kiến thức này giúp tóm tắt những khái niệm, nguyên lý và các chi tiết nổi bật nhất trong lĩnh vực nhi khoa và những điều thường gặp nhất trong khi thi cử.


nguồn ảnh: internet

51. Một trẻ bị abcess gan nên được xét nghiệm bệnh u hạt mạn tính cho đến khi được chứng minh ngược lại.


Top 100 điều cần biết nhi khoa
Sau đây là tổng hợp các kiến thức này giúp tóm tắt những khái niệm, nguyên lý và các chi tiết nổi bật nhất trong lĩnh vực nhi khoa và những điều thường gặp nhất trong khi thi cử.




nguồn ảnh: internet

26. Không giống như các trẻ bị đái tháo đường type 1, hầu hết trẻ bị đái thái đường typ 2 đều ít hoặc không sụt cân và không có hoặc hỉ tiểu nhiều và tiểu đê ở mức độ nhẹ. Hầu như đường niệu không kèm theo cetone niệu (mặc dù có đến 33% có cetone niệu).

Top 100 điều cần biết nhi khoa

Sau đây là tổng hợp các kiến thức này giúp tóm tắt những khái niệm, nguyên lý và các chi tiết nổi bật nhất trong lĩnh vực nhi khoa và những điều thường gặp nhất trong khi thi cử.




nguồn ảnh: internet

1 .Luôn phải nghĩ đến nguyên nhân xoắn buồng trứng trong chẩn đoán phân biệt khi có tình trạng đau bụng ở trẻ gái, đặc biệt trong độ tuổi từ 9-14 tuổi, vì đây là độ tuổi các điểm xoắn tại nang buồng trứng thường xảy ra do trục hormone sinh dục đang trưởng thành

   Có nhiều khi bạn bắt gặp những tình huống mà dân dan gay gọi là khóc dạ đề hay trẻ khó nuôi... Khiến không ít cảnh cả bố, mẹ và thậm chí cả gia đình thức trắng đêm vì trẻ, cũng không ít trong số đó đến với phòng khám, đêm trực của chúng ta với tình trạng quấy khóc liên tục mãi mà không dỗ được, có không ít các bác sĩ cứ quy cho đó là cơn đau bụng có thắt hay cơn colic nhưng thực sự chưa thực sự hiểu được có những vấn đề gì, cần loại trừ những gì,... hi vọng qua bài dịch và tổng hợp dưới đây có thể giúp làm sáng tỏ thêm phần nào.

Trường hợp lâm sàng
Gia đình của một bé trai 2 tuần tuổi mang cậu bé đến khoa cấp cứu bởi vì cấu bé cứ khóc miết hơn 4 tiếng đồng hồ. Bé không có tiền sử sốt nôn, đi chaye, nhiễm trùng hô hấp trên hay thay đổi việc ăn uống gì, vẫn bú sữa mẹ hoàn toàn.

Thăm khám thực thể, sơ sinh phát triển khỏe mạnh và nuôi dưỡng tốt. cân nặng trong giới hạn bình thường. Mặc dù bé quấy và khóc, bé không sốt và các dấu hiệu sống đều bình thường. Các thăm khám thực thể khác đều trong giới hạn bình thường. (Hình ảnh minh họa: internet)

Câu hỏi:
1. Dạng khóc nào bình thường ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
2. Colic là gì?
3. Những tình trạng nào có liên quan đến khó ckéo dài ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
4.  Những yếu tố chính trong việc tham khám một đứa trẻ nhỏ hoặc sơ sinh  vào viện vì khóc.
5. Những xét nghiệm nào cần được chỉ định ở những trẻ này.
6. Những chiến lược điều trị nào có thể hướng dẫn cho bố mẹ làm dịu đi những cơn khóc hoặc cơn colic đó ở trẻ.

Khóc và cơn colic

Khóc,
là một cách giao tiếp quan trọng giữa trẻ và người chăm sóc, không đặc hiệu và có nhiều kích thích có thể dẫn đến những đáp ứng tương tự ( ví dụ như: đói, mệt, đau...). Bố mẹ cho rằng họ có thể phân biệt giữa những loại khóc đó ở trẻ. Khóc có thể được chia thành 3 nhóm: Bình thường hoặc khóc sinh lý, khóc quá mức do các kích thích hoặc bệnh lý, và khóc quá mức (excessively) mà không có nguyên nhân rõ ràng.

Khác biệt giữa bình thường và quá mức có thể mang tính định tính nhiều hơn là định lượng. Một số thăm khám cần được nhớ PURPLE (màu đỏ tía) đặc trưng cho khó trong suốt gia đoạn đầu đời, tập trung định tính có thể đánh lừa người chăm sóc.




Đây là một tai nạn tổn thương không phổ biến, nhưng cũng không quá hiếm gặp, đặc biệt ở nhóm trẻ trai từ 5-12 tuổi – khi trẻ đủ lớn để tự kéo khóa phéc-mơ-tuya quần để đi tè, nhưng cũng đủ nhỏ để không để ý, không thận trọng và để tai nạn xảy ra. Nói vậy, chứ đôi khi tai nạn này cũng xảy ra ở bất kì độ tuổi nào – vì là tai nạn.
Thường khi tai nạn này xảy ra, trẻ rất đau, và rất hoảng loạn, làm người lớn cũng hoảng theo, và đa số người nhà sẽ làm theo quán tính là ráng kéo phéc-mơ-tuya lên xuống để mong làm sao giải phóng phần da đầu chim bị kẹt ra. Tuy nhiên, khi làm như thế này, có thể gây tổn thương, bầm dập thêm vùng da bị kẹt, và gây đau đớn nhiều hơn cho trẻ.
Một mẹo đơn giản là nếu bạn có loại dầu bôi trơn nào, như dầu dừa, dầu ăn, dầu khoáng (những loại không gây hại cho da), nên tưới nhiều lên khắp vùng da bị kẹt, phéc-mơ-tuy, và con chim của trẻ, và đợi khoảng 15-20 phút, da bị kẹt có thể tự “chuồn ra” khỏi khóa kéo.
Nếu muốn làm nhanh hơn, và có sẵn kéo ở đó, bạn có thể làm theo cách sau:
Nếu da đầu chim bị kẹt giữa đường răng của phéc mơ tuy (như hình minh họa):
• Bạn lấy kéo cắt ngang đường răng kéo nằm dưới chỗ kẹt, và tách hai đường răng ra để giải phóng phần da kẹt (số 2).
• Nếu có kéo mạnh nữa (thường là kiềm cắt dây kim loại), bạn có thể cắt thanh ngang của khóa trượt (số 1), để hai bản trước sau của khóa trượt được tách ra, và bạn tiếp tục tách hai đường răng ra để giải phóng phần da kẹt.


Biểu tượng cảm xúc wink
Bạn có biết: đây là một tai nạn rất phổ biến xảy ra. Ở trẻ em, đa số do các tai nạn không mong muốn, đặc biệt khi trẻ té, hoặc đụng vào những đồ vật cứng. Ở người lớn, ngoài tai nạn, có thể còn do “tự chuốc lấy” qua những trận ẩu đả, đánh nhau! Biểu tượng cảm xúc wink.
Thống kê của tổ chức Nội Nha Hoa Kỳ cho thấy, có hơn 5 triệu cái răng bị “văng ra” mỗi năm, ở trẻ em và người lớn! Tuy nhiên, có thể nhiều bạnkhông biết rằng, nếu sơ cứu đúng cách, chúng ta có thể “cứu” được cái răng văng ra này, chứ không phải chịu khổ sở suốt đời vì bị mất răng!
Vậy, chúng ta nên làm thế nào đúng cách? Đây là những bước các bạn nên làm:
Nên nhớ: răng chúng ta có hai phần: phần nhai (là bề mặt phẳng, trơn mà chúng ta dùng để nhai), và phần rễ (như các bạn thấy trong hình, là phần nhọn, và có máu khi răng bị văng ra)


Cứ 10 người có khoảng 1 người đã, đang hoặc sẽ bị co giật ít nhất 1 lần trong đời. Vì vậy, co giật là một “tình trạng” khá thường gặp, và trong cuộc đời mình, bạn có khả năng cao sẽ phải chứng kiến một người bị co giật cần giúp đỡ! Vì vậy, chúng ta nên trang bị cho mình kiến thức cơ bản cần thiết để có thể “giúp đúng” khi cần, hoặc ít nhất, phải biết những hành động nào gọi là “giúp sai” để tránh, không làm tổn thương thêm người cần giúp một cách ngoài ý muốn!
Điều bạn cần biết đầu tiên, và nên luôn nhớ là: BẠN KHÔNG THỂ LÀM GÌ ĐỂ DỪNG CƠN CO GIẬT CỦA MỘT NGƯỜI ĐƯỢC!
Điều thứ 2 nên biết, là: NGƯỜI CO GIẬT KHÔNG THỂ TỰ NUỐT LƯỠI CỦA MÌNH, CŨNG KHÔNG BỊ NGẠT THỞ VÌ CO GIẬT!
Điều thứ 3 nên biết, là: mặc dù bạn có thể cảm thấy rất dài, đa số các cơn co giật CHỈ DÀI KHOẢNG VÀI PHÚT, trung bình là 5 phút, mà thôi!
Vì vậy, đây là những bước bạn nên làm để “giúp đúng”:



Trẻ ngậm vú mẹ tốt là một bước quan trọng để giúp việc cho trẻ bú tốt cho bạn và cho trẻ. Bạn có thể mất một ít thời gian để trở nên thành thục. Bước quan trọng đầu tiên để trẻ có thể bú mẹ tốt là bạn và trẻ đều bình tĩnh và thư giãn. Bạn có thể để ý nhận ra những dấu hiệu mà trẻ cho bạn biết là trẻ sẵn sàng để bú, như xoay đầu bên này sang bên kia, mở miệng ra.


Nhiễm giun kim là một loại nhiễm giun phổ biến nhất trên thế giới. Loại giun này có tính lan rất rộng, và rất thích trẻ em. Gần như tất cả trẻ em đều bị ít nhất một lần nhiễm giun kim cho đến khi trẻ được 18 tuổi, và hơn 50% trường hợp xảy ra khi trẻ bắt đầu lớp 1, khoảng 5-6 tuổi. Không giống như những bệnh khác, loại giun này rất “công bằng”, nó thâm nhập ở tất cả mọi trẻ ở tất cả tầng lớn kinh tế, xã hội, và trẻ dù giàu nghèo đều bị tương đương nhau.
Loại giun này thâm nhập vào cơ thể qua đường miệng, hoặc đường hô hấp, dưới dạng trứng giun, vào đường tiêu hóa, và nở ra, lớn lên, sinh sống trong đường ruột. Tuy nhiên, loại giun này có một đặc điểm là không đẻ trứng trực tiếp trong đường ruột luôn cho tiện, mà có một “sở thích” lạ lùng. Con giun mẹ thường đợi khi con người ngủ yên, sẽ từ từ bò ra đến hậu môn, và đẻ trứng quanh lỗ hậu môn. Vì vậy, đây là nguyên nhân gây cho người mang giun kim ngứa ngáy cái đít vô cùng vào buổi tối. Khi ngứa, sẽ gãi, và khi gãi trực tiếp, thì trứng giun nhỏ xíu sẽ được dịp “cài” vô dưới móng tay, và trở thành phương tiện phát tán bệnh vô cùng hữu hiệu, khi tiếp xúc với người khác, khi đụng vào thức ăn, thức uống, hoặc khi bắt tay. Trứng của giun cũng bằng cách này, mà nhiễm vào đồ chơi, khăn,quần áo, chăn nệm, và có thể sống rất dai, 2-3 tuần ở môi trường bên ngoài, chực chờ cơ hội được đưa vô miệng của một người khác.

Trẻ nên bắt đầu mang giày lúc nào?


Nếu trẻ chưa tự đi được, thì chưa cần mang giày. Nếu trẻ chỉ mới chập chững tập đi, giày chỉ giúp bảo vệ trẻ khỏi chấn thương ngẫu nhiên khi trẻ có thể đụng vào gờ, độ vật cứng khi di chuyển tự mình. So với giày cổ thấp, giày cổ cao không hẳn hỗ trợ trẻ tốt hơn, mà chỉ có lợi hơn là trẻ khó tự gỡ giày cổ cao ra khỏi chân hơn mà thôi.

Một số ba mẹ ông bà cho trẻ đi giày với suy nghĩ việc đi giày sẽ hỗ trợ phát triển cơ xương của chân và bàn chân của trẻ, cũng như giúp tránh những vấn đề đi đứng về sau. Đây là một suy nghĩ không đúng. Chân của trẻ sẽ phát triển một cách tự nhiên, theo chương trình đặt sẵn, và gần như không bao giờ cần các loại giày dép đặc biệt nào để hỗ trợ cả.
Khi trẻ phát triển, bàn chân của trẻ cũng thay đổi rất nhanh, vì vậy cũng cần thay kích cỡ giày rất nhanh. Từ lúc sinh ra, cứ mỗi 2 tháng, bàn chân sẽ to ra ½ số (kích cỡ giày), cho đến 18 tháng tuổi. Từ 18 tháng tuổi đến 3 tuổi, cứ mỗi 3 tháng, bàn chân sẽ to ra thêm ½ số. Từ 3 tuổi trở đi, cứ mỗi năm, chân trẻ lại to ra thêm 1 số.

CÂN NẶNG CỦA CON! 


Con là một con Heo Vàng, ít ra là ba mẹ và ông bà đều bảo con là vậy. Ba mẹ và ông bà đều nói, Heo Vàng là quí lắm đó, vừa quí, vừa hiếm, nên ý đặt tên thế để con biết con được yêu thế nào, để mai mốt con không khổ (như con Trâu chẳng hạn), chỉ cần nằm ườn ra mà cũng có hưởng! Và các cô chú hàng xóm cũng thật sự không ai phản đối điều này (chứng tỏ điều này rất đúng, vì cái gì mà hơi sai tí là các cô chú hàng xóm phản đối dữ lắm kìa). Vì vậy, ngay từ lúc con sinh ra, con đã cảm thấy rất biết ơn và rất được thương yêu. Nhưng mà, sao từ từ, con cảm thấy áp lực quá đi à. Nhiều khi con tự hỏi hay là con thật sự là một con Heo hay sao đó. Càng lớn, con lại càng bị dòm ngó, càng bị véo mông, véo cẳng. Ba mẹ ông bà lại càng hay lắc đầu tặc lưỡi, rồi khiêng con lên cân nhiều lần quá con không đếm được luôn. Có khi trong một ngày, ba mẹ cân con mấy lần con cũng còn không đếm nổi nữa, nói chi là một tháng. Con mà tăng được 100 cà ram là ba mẹ mừng như kiếm được tiền, còn nhiều khi con đi ị, đi tè xong, mất mấy chục gram mà con thấy rất có lỗi vì ba mẹ thấy hụt hết mấy gram. Nhiều khi con không biết có nên đi tè với đi cầu không nữa ạ?! Lúc đầu, con rất ghét mấy số cân nặng của mình, vì vì nó mà ba mẹ ông bà đè con ra cho ăn, mặc dù con không thích. Nhưng từ từ, con cảm thấy quen với điều này, đến mức nhiều khi con không biết tại sao con mở miệng ra nuốt nữa kìa! Nhiều khi, con tự hỏi, kí lô của mình có thật sự như vàng không (như mọi người đều nói), và nếu nói như vậy, là mai mốt con có bị cân kí bán đi như con heo thật không ạ? Hay là con thật sự là MỘT CON HEO?


Mấy hôm nay bị quăng rất nhiều câu hỏi về chàm da của bé nhỏ, đa số dưới 6 tháng – 1 tuổi không à. Mà nghe các mẹ bàn với nhau, thì mới thấy việc các mẹ dùng kem steroids để “thử” cho con thoải mái quá, rồi bàn nhau dùng kem này, kem kia “đặc biệt” để thí nghiệm cho con. Mình đã đóng bài về Chàm da, vì bài này đưa vào sách. Nhưng nay, góp ý kinh nghiệm cho các mẹ như thế này, nha!
Các mẹ nào đã thử kem steroids như Eumovate, đều thấy bôi lên, chàm da lặn rất nhanh, nhưng sau đó cứ tái phát hoài, đúng không? Và nếu dùng kem steroids quá nhiều lần, có thể ảnh hưởng đến bé đấy, đặc biệt là có thể làm cho da mỏng đi, và thay đổi tính chất da lâu dài, cũng như có thể ảnh hưởng đến nội tiết của con! Các loại kem steroids chỉ nên được dùng khi có chỉ định của bác sĩ, các mẹ nhé!
Ảnh của Trần Thị Huyên Thảo.
Thay vì nhảy vô dùng kem điều trị liền, cô chỉ cho các mẹ cách này, nha:
1. Cơ chế chàm da là kích thích gây mất nước, khô da, và NGỨA da
2. Cho nên, các mẹ phải làm sao để cung cấp độ ẩm, bớt khô da, thì da sẽ bớt ngứa, chàm da sẽ được kiểm soát tốt ngay từ đầu
3. Theo cô, kem rẻ tiền nhất, lành nhất, và tiện nhất, chính là kem Vaseline nguyên chất! Các mẹ mua nhiều Vaseline NGUYÊN CHẤT, loại không mùi, bôi lên vùng da bị chàm của con, cứ thoải mái trét thiệt nhiều vô, dày vô, ngày 3-5 lần cũng được. Mục tiêu là cung cấp độ ẩm cho da bị khô, và đồng thời, kem này như một lớp bảo vệ, giúp da không bị tiếp xúc với các chất bẩn có thể kích thích da thêm. Làm trong giai đoạn càng sớm, càng dễ kiểm soát vùng da bị chàm nhanh hơn, và hiệu quả hơn.
4. Nhiều ba mẹ nghĩ là, chàm da khô quá, tắm nhiều cho nó bớt khô – điều này nghe có vẻ đúng về mặc logic, nhưng sai về mặt y khoa – Tắm càng nhiều, càng lâu, càng làm da dễ mất nước và càng khô hơn nhé!



ĐẠI CƯƠNG
-        Suy giáp trạng bẩm sinh là tình trạng giảm chức năng tuyến giáp, sản xuất hormon tuyến giáp giảm dưới mức bình thường, làm giảm nồng độ hocmon gây giảm chuyển hoá.
-        Suy giáp trạng bẩm sinh nếu được chẩn đoán và điều trị sớm trẻ sẽ phát triển như bình thường, nếu muộn trẻ sẽ bị đần.

-        Hay gặp: chiếm 80 – 95%.
-        Gồm có:
+        Vô năng tuyến giáp (37%): rối loạn phát triển TG (không có tuyến giáp hoàn toàn).
+        Giảm sản và lạc chỗ tuyến giáp (63%).
+        Rối loạn trong quá trình di cư hoặc rối loạn quá trình hình thành mầm tuyến giáp.
·         Tuyến giáp lạc chỗ có thể tiết hormon trong nhiều năm.
·         Vị trí lạc chỗ: dưới lưỡi, sau lưỡi, giữa đáy lưỡi và tuyến giáp.
-        Nguyên nhân loạn sản: hiện chưa rõ. Có thể liên quan:
+        Mùa: ở Nhật (cuối xuân, đầu thu), Úc (cuối thu, đông) tỷ lệ mắc cao hơn các mùa khác.
+        Chủng tộc: da trắng mắc nhiều hơn da đen (Mỹ).
+        Giới: nữ bị nhiều hơn nam.
+        Mẹ bị bệnh tự miễn, gia đình bị bệnh tuyến giáp: nguy cơ mắc cao hơn          
+        Liên quan nhóm HLA: nhóm AW 24 mắc 6 - 8 lần cao hơn các nhóm khác.

-        Chiếm 10 - 15% SGTBS.
-        Ở trẻ sơ sinh 1/40.000. Di truyền lặn, NST thường.
-        Dựa vào rối loạn sinh hoá thấy các rối loạn tổng hợp.
-        Đặc điểm: Suy giáp có bướu cổ.
+        Rối loạn tập trung Iodua: hiếm. Giảm hoặc mất hoàn toàn khả năng
+        Rối loạn hữu cơ hoá Iodua: hay gặp. Thường biểu hiện bướu cổ + HC Pendred.
+        Rối loạn ghép đôi các Iodotyrosine: rất hiếm. Biểu hiện bướu cổ có tính chất gia đình.
+        Rối loạn thuỷ phân Thyroglobuline.
+        Rối loạn khử Iốt: thường gặp. Thiếu hụt hoạt tính Deoxidase
+        Rối loạn tổng hợp Thyroglobuline.

-        Không đáp ứng hormone.
-        Giảm TSH do yên, tổn thương tuyến yên.
-        Mẹ sử dụng kháng giáp trạng khi có thai...

MẪU BỆNH ÁN NHI KHOA



I. HÀNH CHÍNH
- Họ và Tên Bệnh Nhân: (Viết = chữ in hoa)
- Sinh ngày….tháng….năm….(dương lịch)
+) Dưới 2 tháng ghi = số ngày, trên 2 tháng ghi = số tháng ( cách tính tháng như sau: lấy ngày sinh làm mốc, trẻ đang ở tháng thứ bao nhiêu thì bấy nhiêu tháng tuổi. Ví dụ: trẻ 3 tháng tuổi được tính từ ngày sinh nhật tháng thứ 2 đến trước ngày sinh nhật tháng thứ 3)
- Giới: Nam/nữ
- Dân tộc……
- Họ tên bố………Tuổi…..
Trình độ văn hóa………………..nghề nghiệp
- Họ tên mẹ: ……..Tuổi…...
Trình độ văn hóa……………….nghề nghiệp
- Địa chỉ: Số nhà……,thôn,phố……..xã, phường………huyện, quận…….tỉnh, thành………..
- Nơi trẻ sống………..
- vào viện…….giờ…….phút, ngày….tháng……năm……..
II. QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN BỆNH:
1. Lý do vào viện: là lý do chính để người mẹ đưa trẻ đên khám bệnh (cũng có thể là lý do cơ sở y tể tuyến trước chuyển viện)
2. Bệnh sử: là phần quan trọng cần đc hỏi kỹ càng vào tỷ mỉ. Trường hợp trẻ vào cấp cứu, hỏi bệnh sử sau khi trẻ đã đc sơ cứu và bà mẹ đã bình tĩnh, yên tâm trả lời các câu hỏi của thầy thuốc. Nên hỏi theo ý sau:
- Bệnh xuất hiện tử bao giờ?
- Triệu chứng xuất hiện đầu tiên là gì và diễn biến của triệu chứng đó
- các triệu chứng kèm theo và diễn biến của nó
- Đã được xử trí ở nhà hoawch cơ sở ý tế trước đó như thế nào? : thuốc, nước, chăm sóc….
- Diễn biến cảu triệu chứng sau xử trí….
- Lý do tại sao phải chuyển viện…..
- Triệu chứng khi đên viện: nêu đầy đủ triệu chứng cơ năng, toàn than, thực thể có liên quan đến lý do vào viện

HỘI CHỨNG VÀNG DA TRẺ SƠ SINH

A.    ĐẠI CƯƠNG:
-        Vàng da là một triệu chứng thường gặp ở trẻ sơ sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra.
-        Vàng da là do lượng bilirubin tăng lên trong máu (> 7 mg% hay 120 µmol/l ở trẻ sơ sinh), trên lâm sàng da có màu vàng.
-        Bilirubin được tạo ra do sự dị hóa của hemoglobin trong cơ thể.
-        Vàng da sơ sinh rất hay gặp ở trẻ sơ sinh:
+        Cứ 3 trẻ sơ sinh ra đời thì 1 trẻ bị vàng da
+        Cứ 3 trẻ đẻ non thì có 2 trẻ bị vàng da.
+        Nếu trẻ sơ sinh đẻ non dưới 32 tuần thì 100% trẻ bị vàng da.
+        Đặc biệt ở trẻ sơ sinh thường hay gặp vàng da tăng bilirubin gián tiếp nhiều hơn vàng da tăng bilirubin trực tiếp.
-        Vàng da sơ sinh cần được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, nếu không sẽ để lại các hậu quả đáng tiếc như vàng da nhân não (­ bilirubin tự do) và xơ gan do tắc mật (­ bilirubin trực tiếp).

1.      Chuyển hóa của bilirubin trong cơ thể:


1.1.   Giai đoạn 1: xảy ra trong hệ thống liên võng nội mô.
-        Hb chia thành HEM và globin.
-        Dưới tác dụng của các enzym (HEM Methenyloxygenase, HEM Methenylformylase, Biliverdin reductase) cho ra biliverdin và biliverdin thành bilirubin gián tiếp vào máu.
-        1 g Hb cho 64 µmol bilirubin = 35 mg bilirubin.
-        Bilirubin gián tiếp dễ thấm qua các màng, dễ tan trong mỡ. Nếu bị ứ đọng trong máu sẽ thấm vào các tạng có nhiều chất phospholipid như da, niêm mạc, não...

1.2.   Giai đoạn 2: xảy ra trong máu.
-        Bilirubin gián tiếp (tự do) được gắn vào albumin huyết thanh chuyển về gan.
-        1 mol Albumin kết hợp ít nhất với 1 mol bilirubin. Trẻ sơ sinh đủ tháng khỏe mạnh 1 lít máu có 510 µmol albumin = 35 g, có thể kết hợp với 510 µmol Bilirubin.
-        Trong máu một phần bilirubin kết hợp với albumin, còn 1 phần ở dạng tự do không kết hợp.

1.3.   Giai đoạn 3: xảy ra trong tế bào gan.
-        Phức hợp Bil – Alb tới găn dưới tác dụng của 2 enzym chính là ligandin và glucuronyl transferase, tách Alb gắn với protein Y – Z thể cytozol của gan và chuyển thành Bilirubin trực tiếp  tan trong nước rồi tách khỏi tế bào gan qua đường mật tới ruột.

1.4.   Giai đoạn 4: xảy ra trong ống tiêu hóa.
-        Một phần bilirubin trực tiếp có thể bị tác dụng của enzym β glucuronidase trở lại dạng Bil gián tiếp về gan trong chu trình ruột gan.
-        Phần lớn Bil trực tiếp được thải qua phân 90% (khoảng 100 – 200 mg sterobilinogen/ngày) và 10% qua nước tiểu (khoảng 4 mg urobilinogen/ngày).
2.      Chuyển hóa bilirubin trong bào thai:

BỆNH MÀNG TRONG

1.      ĐẠI CƯƠNG:
-        Bệnh màng trong là một trong những bệnh hay gặp nhất gây SHH ở trẻ sơ sinh.
-        Tỷ lệ gặp: 1% tổng số trẻ sơ sinh nói chung, 5 - 10% trẻ sơ sinh đẻ non.
-        Bệnh thường biểu hiện vài giờ hoặc vài ngày sau đẻ.

-        Bệnh gặp 5 - 10% số trẻ đẻ non. Trẻ ít cân có tỷ lệ mắc bệnh cao và tử vong giảm theo thời gian xuất hiện bệnh.
-        Hai yếu tố gây bệnh là đẻ non và thai ngạt trong tử cung.
*        Bệnh sinh:
-        Vì phổi chưa trưởng thành, độ thẩm thấu của mao mạch phổi và màng phế nang tăng dễ gây phù ở tổ chức kẽ và lòng phế nang à tế bào máu, huyết tương, fibrin thoát mạch tràn vào phế nang. Sau khi dịch rút đi, fibrin và một số hồng cầu đọng lại trong lòng phế nang.
-        Vì thai ngạt, các tế bào phế nang bị thiếu O2, dinh dưỡng tế bào kém nên sản xuất không đủ surfactant à không tạo được sức căng bề mặt à phế nang bị xẹp, trao đổi khí kém dẫn tới suy hô hấp.
-        Trên lâm sàng sẽ thấy suy hô hấp xuất hiện sau một thời gian ngắn (một vài giờ hoặc vài ngày), nhanh chóng gây RL trao đổi khí, khí không khuyếch tán qua màng phế nang được à trẻ phải gắng sức thở, nhanh chóng bị suy kiệt.


Sơ đồ bệnh sinh:
-        Thường xuất hiện ở trẻ đẻ non, thai ngạt.
-        Mẹ bệnh lí: đái tháo đường, xuất huyết sinh dục trước đẻ.
-        Các triệu chứng xuất hiện sau đẻ vài giờ hoặc vài ngày. Điển hình là trong vòng 6 giờ đầu.
-        Trẻ đang thở bình thường thì đột ngột xuất hiện suy hô hấp:
+        Tím tái xuất hiện ngày càng tăng.
+        Thở nhanh > 60 lần/phút, trẻ quá non thậm chí thở chậm.
+        Co kéo cơ hô hấp rõ: rút lõm lồng ngực, cánh mũi phập phồng.
+        Thở rên: chủ yếu thì thở ra.
+        Nghe phổi phổi: RRFN kém, lúc đầu từng vùng sau lan khắp cả hai trường phổi.
+        RL tim mạch: mạch nhanh >120 ck/phút.
+        Chỉ số Silverman tăng nhanh > 5 điểm.
-        Nếu không được điều trị, sau vài giờ:
+        Vật vã, ngạt thở, thở chậm à cơn ngừng thở kéo dài.
+        Trụy tim mạch à tử vong.

-        Là 1 xét nghiệm rất có giá trị cho chẩn đoán:
+        Những nốt mờ nhỏ khắp 2 phế trường.
+        Trong hệ thống phế quản ứ khí quá sáng trên phim.
-        Dựa vào hình ảnh XQ phổi, bệnh màng trong được chia làm 4 giai đoạn:
+        GĐ1: ứ khí ở khí quản, phế quản lớn. Biểu hiện là các nốt mờ nhỏ khắp 2 phế trường.
+        GĐ2: GĐ 1 + phế nang bị xẹp nên có hình lấm tấm các hạt mờ rải rác cả 2 phế trường: các hạt mô lấm tấm rải rác 2 phế trường. Nhìn rõ hệ thống phế quản bên ngoài bóng tim.
+        GĐ3: GĐ 2 + các tổ chức kẽ bị phù biểu hiện là hình ảnh mạng lưới cả hai phổi.
+        GĐ4: phổi bị xẹp, khí không vào được phế nang biểu hiện: phổi mờ đều (phổi trắng), chỉ thấy các nhánh PQ, KQ, không rõ bờ tim.

Contact Form

Name

Email *

Message *

Powered by Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget